|
TÓM TẮT NGUỒN
GỐC DÒNG TỘC
*****
Tộc Nguyễn Quang Tiền làng Bích Trâm là một Đại Chi
của Đại Tộc Nguyễn, thuộc dòng họ Nguyễn
Bặc.
Nguyên tiền Thủy tổ Đại Tộc Nguyễn là ngài Nguyễn Bặc
(924 – 979) người cùng thời, cùng quê với Đinh Bộ Lĩnh, đã có công giúp Đinh Bộ
Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Năm Mậu Thìn (968) khi lên ngôi lấy hiệu Tiên Hoàng Đế,
Đinh Bộ Lĩnh phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc Công. Ngài Nguyễn Bặc là người có
công xây dựng và hết mực trung thành với triều Đinh, ngài mất vào thời Phế Đế (15
tháng 10 năm Kỷ Mão), đến triều nhà Lý được truy phong là
Phúc Thần,
nhà thờ và lăng mộ tại Đại Hữu xã Gia Phương, huyện Gia Viễn,
tỉnh Ninh Bình.
Thời
Lý, Trần và Hậu Lê, con cháu của ngài Nguyễn Bặc vào định cư tại Thanh Hóa, nhiều
người học giỏi, đỗ đạt cao ra làm quan giúp nước, trong đó có ngài Viễn
tổ Nguyễn Bá Cao – Thái phó phổ Quận công (hậu duệ đời thứ 19
của ngài Nguyễn Bặc, con trai thứ 7 của ngài Nguyễn Công Duẫn, khoảng 1460 – 1522),
lăng mộ và nhà thờ tại Gia Miêu – Thanh Hóa (đình Gia Miêu – Hà Trung – Thanh Hóa
thờ ngài Nguyễn Công Duẫn thân sinh Nguyễn Bá Cao). Thời Lê Anh Tông (1558) con cháu của ngài Nguyễn Bá Cao, trong đó có ngài Nguyễn Liễu, theo chúa tiên Nguyễn Hoàng đi trấn thủ Thuận Hóa (Doanh trại của Thuận Hóa lúc bấy giờ đóng tại Triệu Phong – Quảng Trị).
Năm Canh Thân – 1560, theo chủ trương của chúa tiên Nguyễn Hoàng, ngài Nguyễn Liễu (Thanh Liễu, Văn Liễu, tự Đào), hậu duệ đời thứ 22
của ngài Nguyễn Bặc*, cháu đời thứ 3 của ngài Nguyễn Bá Cao cùng người em tên là
Nguyễn Văn Nghiêm vào khẩn hoang lập ấp tại làng Bích Trâm – xã Điện Hòa – huyện
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Ngài
Tán lý lộc Quận công Nguyễn Liễu (Thanh Liễu, Văn Liễu,
tự Đào) là Người khởi tổ tộc Nguyễn Quang Tiền làng Bích
Trâm đến nay đã qua 450 năm, kế tục 15 đời con, cháu. Để ghi nhớ công lao của ngài
và các bậc tiền nhân, ông - cha ta đã xây dựng nhà thờ, lăng mộ, lập văn bia, phả
tộc khá hoàn chỉnh nhưng trải qua các biến cố, thiên tai – địch họa, nhất là qua
2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1946 – 1975), các chính bản,
di tích bị tàn phá, thất lạc, hiện còn phần mộ và nhà thờ của ngài tại thôn Bích
Bắc – xã Điện Hòa – huyện Điện Bàn – tỉnh Quảng Nam. Là người họ Nguyễn đầu tiên
đến khai canh - khai cư, lập làng tại đây nên ngài Nguyễn Liễu được sắc phong Tiền
hiền, được thờ làm thành hoàng làng, nhà thờ tộc của ngài được gọi là nhà thờ tộc
Nguyễn Quang Tiền làng Bích Trâm**.
Ngài
Nguyễn Liễu sinh hạ ngài Nguyễn Đình Tiêu. Ngài Nguyễn Đình Tiêu sinh hạ ngài Nguyễn
Đình Tiềm, Nguyễn Đình Nhiệm. Ngài Nguyễn Đình Tiềm, Nguyễn Đình Nhiệm sinh hạ các
vị tổ kế tục đời sau. Ba anh em – cháu đời thứ 7 của ngài Nguyễn Liễu là Nguyễn
Kết, Nguyễn Nên, Nguyễn Vạt được hưởng quyền thừa kế định cư – canh tác phần ruộng
đất của tộc Nguyễn Quang Tiền khẩn hoang tại làng Bích Trâm – xã Điện Hòa – huyện
Điện Bàn – tỉnh Quảng Nam, từ đây
hình thành 3 phái. Để tóm tắt nguồn gốc dòng tộc
và khắc ghi công đức tiền nhân, tại nhà thờ tộc Nguyễn Quang Tiền và lăng mộ tiền hiền ngài Nguyễn Liễu có đôi vế đối
như sau:
* Về nguồn gốc dòng tộc:
Đại Hữu khởi nguyên – hậu duệ Gia Miêu xuất;
Bích Trâm khẩn ấp – Quang Tiền công tước lai.
Nguyên văn chữ Hán:
* Về công đức tiền nhân:
Phụng mệnh nam triều vi trấn ải;
Tùng huynh khẩn địa định nghi sào.
Nguyên văn chữ Hán:
Mời xem phả đồ tộc và các chi phái ở phần hai.
-----------------------------------------------
* Có
tông đồ ghi ngài Nguyễn Liễu là hậu duệ đời thứ 17 của ngài Nguyễn Bặc.
** Con cháu họ Nguyễn, gốc Nguyễn Bặc có người ở chi trên, phái trên vào định cư
tại đây, nhưng nếu không thuộc Hệ Đế Vương thì đều đến sau và là cháu nhiều đời
sau của ngài Nguyễn Liễu và Nguyễn Thanh Nghiêm.
====================== BẢN CHỮ HÁN ======================
Mời quý vị xem tiếp phần Phả đồ Tộc và các chi, phái!
|